LiteRead

Tôi Thành Tài Ở Giới Tu Tiên - CHƯƠNG 6

Quân Binh Nước Trịnh

Thời gian lặng lẽ trôi.

Thoáng chốc, đã nửa tháng trôi qua.

Vệ Đồ và Hạnh Hoa chỉ nghỉ ngơi một ngày sau lễ thành thân, liền quay lại công việc thường nhật trong phủ họ Lý, bận rộn cả trong lẫn ngoài, không chút lười biếng.

Hai người làm việc còn siêng năng hơn cả trước.

Những điều ấy đều được đại phu nhân Lý Đồng Thị để mắt đến. Mỗi dăm ba hôm bà lại khen ngợi một hai câu, thể hiện rõ sự hài lòng đối với cuộc hôn nhân do chính mình tác thành.

So với Vệ Đồ, Hạnh Hoa thay đổi nhiều hơn. Trước đây còn lén lút nếm món ngon trong bếp, giờ đã thay đổi tính nết.

Một cân thịt nấu xong còn bảy lạng, nàng mang nguyên bảy lạng ấy dâng lên bàn ăn nội viện, không giấu không bớt, không ăn vụng lấy một miếng.

Cảm nhận được sự hài lòng của đại phu nhân lên đến đỉnh điểm trong mười năm qua, Hạnh Hoa bèn lựa buổi chiều, rón rén đến thỉnh an và nói ra ý định muốn cùng Vệ Đồ xin phép về quê thăm thân.

“Trong sách có câu: ‘Vô sự hiến ân cần, phi gian tức đạo’...”
Lý Đồng Thị đang ngồi khâu đế giày trong phòng, dây gai xuyên qua lớp vải dày phát ra âm thanh xột xoạt. Bà ngẩng đầu, nhìn Hạnh Hoa rồi cười, nói ra một câu nửa đùa nửa thật.

Lời có hơi cay nghiệt, nhưng đi kèm với nụ cười hiền hòa của bà lại khiến Hạnh Hoa bớt đi phần căng thẳng.

“Việc mấy hôm nay của hai người ta đều thấy. Cứ yên tâm, trước khi cô về, ta sẽ không để ai thay ca đâu.”
Lý Đồng Thị mỉm cười nói.

“Đội ơn đại phu nhân.”
Hạnh Hoa xúc động cúi đầu cảm tạ.

“Còn một việc nữa…”

Sau một thoáng do dự, Hạnh Hoa cắn răng kể ra chuyện muốn để Vệ Đồ thuê ruộng lúa của nhà họ Lý để canh tác làm tá điền.

Qua mùa đông, là bắt đầu vào vụ trồng lúa, đậu và cải dầu.

Lúc đó mà không chiếm được đất thì chẳng còn mảnh nào tốt để thuê.

“Anh Đồ sẽ không bê trễ việc nuôi ngựa đâu ạ…”
Thấy Lý Đồng Thị chưa phản ứng gì, Hạnh Hoa vội vàng bổ sung.

Nàng cũng biết, yêu cầu này hơi quá.

Một người dù có siêng cỡ nào, cũng không thể cùng lúc làm tốt cả hai việc.

Nuôi ngựa và trồng trọt, nếu sơ suất một bên, thì người chịu thiệt sẽ là phủ họ Lý.

Hơn nữa, phủ Lý ở ngay huyện thành, nếu Vệ Đồ thuê ruộng, vì phải chăm lo việc nuôi ngựa nên chỉ có thể chọn đất bên sông gần thành.

Mà đất sông với đất gò khô đâu giống nhau — đất bờ sông là loại đất hạng nhất.

Dù có gặp hạn, cũng có thể được mùa.

“Chuyện thuê đất, đợi hai người về quê xong hẵng tính.”
Lý Đồng Thị không từ chối, cũng không đồng ý.

“Vâng, thưa đại phu nhân.”

Hạnh Hoa hơi buồn bã, cúi đầu rời khỏi nội viện.

Tối hôm đó.

Nghe Hạnh Hoa kể lại, Vệ Đồ mỉm cười trấn an:

“Đại phu nhân đã không từ chối thẳng thì tức là trong lòng đã có xu hướng đồng ý. Chỉ là, làm chủ nhà, không thể thuận miệng gật đầu liền hai việc.”

Phía sau những lời này, cậu không nói ra.

Việc Lý Đồng Thị làm rất có lý — nếu quá chiều lòng hạ nhân, sớm muộn gì cũng bị lấn lướt.

Phủ họ Lý được bà điều hành đâu vào đấy, trên dưới đều kính mà sợ – đủ thấy bà là người biết phép tắc quản lý.

“Lần này chưa được, thì lần sau lại xin. Xin vài ba lần, đại phu nhân mềm lòng, khi ấy chắc chắn sẽ đồng ý.”
Vệ Đồ bày tỏ suy nghĩ.

Mà cho dù không được.

Đợi đến khi cậu luyện công hoàn thành, bước vào cảnh giới cảm khí, thì chuyện thuê ruộng trồng trọt chẳng còn nghĩa lý gì.

Hiện tại, với dòng khí ấm dâng trào trong cơ thể mỗi ngày, Vệ Đồ đã có thể dễ dàng phát lực đến hơn trăm cân.

Sau khi luyện công viên mãn, thân thể chắc chắn sẽ còn mạnh mẽ hơn bây giờ.

Với thể lực ấy, học thêm chút quyền pháp, đọc vài quyển binh thư, tiến có thể dự võ cử, giành danh hiệu võ tú tài, võ cử nhân; lùi có thể làm hộ viện cho nhà giàu, làm khách khanh được kính trọng.

Triều đình nước Trịnh thi võ cử, trọng võ trước, trí sau.

Chỉ cần võ nghệ cao, binh pháp kém cũng chẳng sao – vẫn đỗ được.

“Vâng, vậy đợi về rồi em sẽ xin thêm vài lần nữa.”
Nghe xong phân tích rõ ràng của Vệ Đồ, Hạnh Hoa vừa thán phục, vừa mừng rỡ.

Sáng sớm hôm sau.

Vệ Đồ và Hạnh Hoa thu dọn hành lý, rời huyện thành lúc trời còn chưa sáng rõ, thẳng đường về quê.

Quê Vệ Đồ là làng Vệ Gia, thuộc xã Trường Minh, huyện Thanh Mộc.

Từ huyện đến đó, phải đi hơn hai mươi dặm đường quan lộ, rồi thêm bảy tám dặm đường núi nhỏ.

Đi được nửa đường.

Trên quan đạo, có một xe la đi cùng hướng. Hai người trả chút bạc, ngồi nhờ lên xe.

Đến cuối quan đạo, vào giờ Mùi thứ ba (khoảng 1–2 giờ chiều), vẫn còn hai canh giờ nữa mới tối hẳn.

Hạnh Hoa định tiết kiệm, không vào trọ, mà đi thẳng đường núi về làng.

“Trời lạnh thế này, trên núi lắm cọp, lắm sói đói tràn xuống. Giờ này mà còn đi đường núi, nhỡ đến tối chưa về đến nhà thì nguy hiểm lắm.”
Gã phu xe tốt bụng, nghe nói họ là vợ chồng về quê, liền góp lời cảnh báo.

“Không chỉ có thú rừng đâu, còn có cả thổ phỉ… Một mình nam nhân thì còn đỡ, chứ thêm một phụ nữ thì bọn đó không tha đâu.”
Dừng xe trước quán trọ, gã nhổ bãi nước bọt xuống đất, lại nhắc thêm một câu.

“Nghe lời khuyên, ăn no cơm.”

Hạnh Hoa nhìn quanh, thấy nhiều người nghỉ trọ ở đây cũng ăn mặc bình dân, không phải nhà giàu có, mới không cố chấp nữa. Nàng lấy tiền thuê một căn phòng đơn.

Đêm đó.

Hai người vẫn mặc nguyên y phục mà ngủ.

Tầm canh tư (khoảng 3 giờ sáng), vì thói quen dậy sớm cho ngựa ăn, Vệ Đồ bất chợt tỉnh giấc.

Lúc ấy, cậu nghe thấy ngoài sân có tiếng vó ngựa vang lên, loáng thoáng, rối loạn.

Vệ Đồ tiến đến bên cửa sổ, đẩy hé một cánh ra nhìn.

Chẳng mấy chốc.

Dưới ánh trăng sáng, ở khoảng cách vài trăm bước, cậu thấy rõ đoàn người cưỡi ngựa — vài chục kỵ binh đội mũ sắt, mặc giáp da đỏ, người dẫn đầu cầm lá cờ có chữ “Trịnh” lớn thêu bằng chỉ bạc.

“Quan binh nước Trịnh?”
Vệ Đồ ngạc nhiên.

Kỵ binh là lực lượng hiếm hoi, cả huyện Thanh Mộc cậu cũng chưa gặp được mấy lần.

Nay bất ngờ xuất hiện ngoài quán trọ, chắc chắn có điều gì đặc biệt.

Đúng lúc Vệ Đồ đang chăm chú quan sát, bên trong đoàn kỵ binh đột nhiên vang lên tiếng giao chiến.

Sau nửa khắc, tiếng chém giết dần dứt.

Một lát sau, toán kỵ binh rời đi, tan biến nơi quan lộ.

Chỉ còn lại trên đất vài tên đao khách, tay cầm đao Hoành Sơn.

“Quan binh tróc phỉ?”
Vệ Đồ thầm đoán.

“Chẳng lẽ nơi nào lại mất mùa? Nên mới có giặc cướp nổi lên?”

Cướp có hai loại — một là bản chất hung ác, đi cướp bóc kiếm ăn; hai là dân lương thiện bị dồn vào đường cùng do thiên tai, buộc phải cầm đao làm giặc.

Ở phủ Khánh Phong, đao khách tung hoành ngang dọc, đỉnh điểm là nạn “rồng đỏ lật mình” năm Khánh An thứ mười lăm, có nơi mười hộ thì ba hộ có người làm giặc.

“Chỉ mong đợt này không lan đến huyện thành. Nếu tai họa lan rộng, dân biến thành giặc, đánh thành chiếm đất, đến lúc đó, phàm là hạ nhân của các đại hộ cũng bị ép sung làm dân binh…”

Vệ Đồ chau mày lo lắng.

Bình luận